Tin tức

Từ nghèo đói đến cường quốc lương thực

Hành trình hồi sinh của hạt gạo Việt

Đầu năm 1945, chính sách vơ vét thóc gạo của phát xít Nhật và thực dân Pháp cùng thiên tai, mất mùa đã đẩy hàng triệu người Việt vào nạn đói khủng khiếp. Sau cải cách ruộng đất 1954 và giai đoạn hợp tác hóa, năng suất nông nghiệp sụt giảm nghiêm trọng, đời sống người dân lâm vào bế tắc.

Trong bối cảnh ấy, nhiều cá nhân dũng cảm tiên phong tìm đường đổi mới. Tại Thái Bình, ông Trần Mạnh Báo – Phó trưởng trại giống lúa Đông Cơ (tiền thân ThaiBinh Seed) – đã đề xuất “Khoán sản phẩm cuối cùng đến người lao động” vào năm 1987, giao ruộng cho nông dân tự chủ sản xuất. Mô hình này nhanh chóng chứng minh hiệu quả, năng suất tăng gấp 10 lần chỉ sau một năm.

Cùng thời điểm đó, Nghị quyết 10 năm 1988 ra đời, thừa nhận hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ – mở ra kỷ nguyên mới cho nông nghiệp Việt Nam. Nông dân được tự chủ sản xuất, hưởng thành quả trên mảnh ruộng của mình, đồng thời tự do lưu thông và mở rộng thị trường. Kết quả, sau một năm, Việt Nam từ chỗ phải dùng vàng đổi 200 tấn lương thực cứu đói (1988) đã có gạo dư để xuất khẩu.

Theo ông Đỗ Hà Nam, Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam, trước năm 1986, Việt Nam mỗi năm phải nhập trên 1,5 triệu tấn gạo để bảo đảm an ninh lương thực. Sau Khoán 10, tình thế đảo ngược, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo, khép lại thời kỳ thiếu đói.

Tuy nhiên giai đoạn đầu, gạo xuất khẩu chủ yếu là phẩm cấp thấp, chưa có thương hiệu. Hệ thống sấy gạo, kho chứa lạc hậu, thất thoát cao. Cơ chế hạn ngạch và hợp đồng tập trung khiến doanh nghiệp thiếu linh hoạt, dễ bị ép giá.

Khoán 10 cứu ngành lúa gạo, mở đường cho rau quả, chăn nuôi, thủy sản bứt phá. Ngay cà phê, khi ấy mới manh nha, cũng bắt đầu vươn ra thế giới. Năm 1981, những chuyến cà phê xuất khẩu đầu tiên sang Liên Xô và Đông Âu theo hình thức trao đổi hàng hóa đã đặt nền móng cho ngành cà phê Việt.

Ông Đặng Phúc Nguyên, Tổng thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam, nhớ lại năm 1983, khi ông mới bước vào ngành đưa rau quả sang Liên Xô, cả nước chưa ai nghĩ tới chuyện xuất khẩu lương thực. Nhưng từ khi Khoán 10 ra đời, mọi thứ đổi thay. Năm 1992, những trái thanh long Việt lần đầu “xuất ngoại”, sang Đài Loan, mở ra thời kỳ mới. Từ vài tấn quả ban đầu lên đến hàng nghìn container mỗi năm.

“Chúng ta bắt đầu từ hợp tác xã nhỏ, nhà xưởng vài trăm người. Giờ đã có doanh nghiệp lớn, nhà máy hiện đại, chuỗi cung ứng đi khắp nơi”, ông Nguyên nói, thêm rằng thành công có được là nhờ Nhà nước trao quyền cho nông dân và khuyến khích doanh nghiệp đầu tư.

Từ gạo rẻ tới gạo ngon nhất thế giới

Từ nền tảng Khoán 10, sản xuất lúa gạo tiếp tục mở rộng nhưng vẫn đối mặt tình trạng ruộng đất manh mún. Để khắc phục, mô hình cánh đồng mẫu lớn được đẩy mạnh từ 2010, hợp nhất đất đai và ứng dụng giống mới, cơ giới hóa.

Ngành nông nghiệp bước vào giai đoạn chuyển đổi thứ hai, tập trung vào chất lượng và công nghệ. Nguyên Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Bùi Bá Bổng, Chủ tịch Hiệp hội Ngành hàng lúa gạo Việt Nam, cho rằng khoa học và công nghệ, đặc biệt chọn tạo giống, trở thành động lực then chốt cho phát triển của nông nghiệp. Ngành đã hình thành bộ giống lúa chất lượng cao, đưa năng suất bình quân cả nước vượt 6 tấn mỗi ha, gấp đôi Thái Lan, Ấn Độ. Năng suất nhờ đó tăng 15-30% so với canh tác truyền thống, theo số liệu Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường).

Theo số liệu từ Cục Thống kê, tỷ lệ lúa chất lượng cao tăng từ 50% năm 2015 lên 74% vào 2020, giúp hơn 85% lượng gạo xuất khẩu thuộc phân khúc cao cấp. Năm 2019, giống ST25 của nhóm kỹ sư Hồ Quang Cua, Trần Tấn Phương và Nguyễn Thị Thu Hương được vinh danh “Gạo ngon nhất thế giới”, mở đường cho chiến lược chuyển từ bán gạo trắng giá rẻ sang gạo thơm, đặc sản, hữu cơ.

“Gạo Việt đã thoát khỏi lời nguyền giá rẻ, khẳng định vị thế cạnh tranh bằng chất lượng, thương hiệu trên bản đồ thế giới”, ông Bùi Bá Bổng nói.

Thành công này nhanh chóng lan tỏa. Ông Trương Văn Hùng, Giám đốc Hợp tác xã Nông nghiệp Hưng Lợi (Sóc Trăng cũ), cho biết toàn bộ 522 xã viên đã chuyển sang trồng gạo chất lượng cao, như giống ST25. “Năng suất không quá cao, nhưng giá bán tốt nhất nên bà con có lời”, ông nói.

Giá lúa ST25 bán tại ruộng hiện khoảng 8.750 đồng một kg, cao hơn 40-50% so với giống thường. Trung bình mỗi ha nông dân lãi 40-50 triệu đồng. Thậm chí có vụ giá mỗi kg lên tới 12.000 đồng, giúp nông dân thu lời 70-80 triệu đồng một ha.

Năm 2023, gạo Việt lần đầu dẫn đầu thế giới về giá, vượt các đối thủ như Thái Lan, Ấn Độ. Xuất khẩu gạo đạt kỷ lục 9 triệu tấn vào năm ngoái, đem về 5,7 tỷ USD, mức cao nhất lịch sử.

Thành công của hạt gạo là “lực đẩy” cho nhiều nông sản khác. Năm 2024, sầu riêng lần đầu vượt mốc 3 tỷ USD, cà phê giữ vị trí số 2 thế giới. Trong khi đó, hạt điều, hồ tiêu, trái cây tươi đều góp mặt trong “câu lạc bộ xuất khẩu tỷ USD”.

Cuộc chơi mới – Nông nghiệp xanh

Việt Nam đang thực hiện Đề án một triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp tại đồng bằng sông Cửu Long – nơi cung cấp hơn 90% lượng gạo xuất khẩu. Ông Bùi Bá Bổng gọi đây là bước tái định vị gạo Việt trên bản đồ thế giới, tận dụng “đỉnh cao cơ hội” của ngành.

Chương trình đặt mục tiêu giảm 10% chi phí, tăng 20% lợi nhuận, cắt giảm 10 triệu tấn CO2 mỗi năm. Tháng 6, lô 500 tấn gạo Japonica dán nhãn “Gạo Việt xanh, phát thải thấp” xuất sang Nhật với giá 820 USD một tấn, đã phát tín hiệu tích cực.

Ông Bùi Bá Bổng nhận xét lúa gạo Việt đang bước vào kỷ nguyên “xanh và thịnh vượng”, tức là canh tác thông minh, gạo sạch, chất lượng cao, giúp gia tăng thu nhập và phát triển theo chuỗi tuần hoàn.

Tại đồng bằng sông Cửu Long, hợp tác xã của ông Trương Văn Hùng đã chọn đi theo hướng này, với 50 ha. Mỗi ha canh tác chỉ cần sạ (gieo hạt giống đã ươm) 60-70 kg giống thay vì 100 kg như trước, chi phí giảm và năng suất giữ nguyên. Giá lúa trồng theo mô hình này cũng cao hơn khoảng 700 đồng một kg, doanh nghiệp bao tiêu ổn định.

Tuy vậy, thách thức vẫn ở phía trước. Ông Trần Mạnh Báo nhìn nhận nông sản Việt đối diện với thử thách ứng dụng công nghệ, giống lúa mới và việc xây dựng một lớp nông dân mới. “Lớp nông dân mới cần là những người hiểu luật, nắm thị trường và ý thức được mình đang tham gia chuỗi giá trị toàn cầu”, ông nói.

Cùng với đó, hạ tầng logistics, bảo quản và chế biến sâu vẫn là những điểm cần tiếp tục đầu tư để nông sản Việt giữ vững vị thế.

TS. Đặng Kim Sơn đề xuất một tầm nhìn xa hơn, đưa Cần Thơ – vựa lúa của đồng bằng sông Cửu Long – trở thành trung tâm nông nghiệp thế giới, hội tụ các viện nghiên cứu, khu công nghệ cao, nối thẳng ra cảng biển và sân bay. Theo ông, một cú hích hạ tầng đủ để nông sản Việt đi khắp năm châu.

Ông Đỗ Hà Nam nhận xét: “Thị trường ngày càng đòi hỏi chất lượng, minh bạch và trách nhiệm môi trường. Muốn tồn tại chúng ta phải đầu tư nghiêm túc”.

Nguồn: VnExpress

Tin tức khác