Tin tức

Đề xuất phát triển bền vững “vựa lúa gạo” Đồng bằng sông Cửu Long

Trong Dự thảo văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, vùng Đồng bằng sông Cửu Long được xác định phát triển theo hướng nông nghiệp hiện đại, bền vững, thích ứng biến đổi khí hậu gắn với không gian phát triển mới và liên kết vùng là trụ cột quan trọng.

Đây là cơ sở để hoạch định chiến lược phát triển “vựa lúa gạo” theo hướng đa giá trị và bền vững.

Đồng bằng sông Cửu Long có hơn 17 triệu dân, với hơn 2,4 triệu ha đất trồng lúa, sản xuất 24-25 triệu tấn lúa, chiếm khoảng 55% sản lượng, chiếm hơn 90% sản lượng gạo xuất khẩu của cả nước. Vùng này không chỉ bảo đảm an ninh lương thực quốc gia mà còn góp phần quan trọng vào xuất khẩu nông sản và ổn định kinh tế vĩ mô.

Năm 2024, xuất khẩu gạo cả nước đạt trên 9 triệu tấn, kim ngạch hơn 5,6 tỷ USD là mức cao nhất trong hơn ba thập niên, đưa gạo Việt vượt Thái Lan và Ấn Độ về giá bán. Nhưng đằng sau kỳ tích ấy, nhiều câu hỏi lớn vẫn được đặt ra: nông dân có thật sự giàu từ cây lúa, ngành hàng lúa gạo đã bền vững chưa, và liệu Đồng bằng sông Cửu Long có thể duy trì vị thế “vựa lúa” trong kỷ nguyên kinh tế xanh?

Dự thảo văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng nhấn mạnh nhiều nội dung quan trọng liên quan trực tiếp đến vấn đề này. Đó là yêu cầu đổi mới thể chế và tư duy phát triển vùng; phát triển nông nghiệp xanh, hiện đại, tuần hoàn và ứng dụng công nghệ cao; hoàn thiện chính sách đất đai linh hoạt, cho phép chuyển đổi đất lúa hiệu quả thấp; và triển khai chương trình phòng chống thiên tai, ứng phó biến đổi khí hậu vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Những định hướng này thể hiện rõ tầm nhìn chiến lược, phát triển nông nghiệp không chỉ để bảo đảm an ninh lương thực, mà còn phải trở thành động lực tăng trưởng xanh và bền vững của quốc gia.

Vai trò đặc biệt quan trọng của ngành qua góc nhìn cây lúa là góp phần phát triển kinh tế, xã hội, tăng cường vị thế chính trị, ngoại giao và đề cao ý nghĩa nhân văn. Vùng Đồng bằng sông Cửu Long và ngành hàng lúa gạo cần tiếp tục được quan tâm trước những thách thức mới liên quan biến đổi khí hậu, an ninh nguồn nước, biến động thị trường và phát huy vị thế của nông dân, xây dựng nền nông nghiệp hiện đại.

Con đường lúa gạo mới

Dự thảo văn kiện đã nhấn mạnh đến việc đổi mới thể chế liên kết vùng, coi đây là “giải pháp trọng tâm để tạo không gian và động lực phát triển mới”. Với Đồng bằng sông Cửu Long, điều này đặc biệt quan trọng bởi nhiều năm qua, không gian phát triển vẫn bị chia cắt theo địa giới hành chính, dẫn đến đầu tư chồng chéo, cạnh tranh cục bộ, thiếu sự phối hợp trong quản lý tài nguyên nước, quy hoạch thủy lợi và hạ tầng logistics. Chính vì vậy, việc thiết lập cơ chế điều phối vùng đủ thẩm quyền, có thể là Hội đồng điều phối vùng thực chất sẽ giúp các địa phương liên kết hiệu quả, đồng bộ hóa quy hoạch và sử dụng nguồn lực.

Liên kết vùng cũng phải được hiểu rộng hơn là sự gắn kết về chuỗi giá trị, về thị trường, logistics và thương hiệu. Văn kiện cần cụ thể hóa hơn mục tiêu này, xây dựng Đồng bằng sông Cửu Long không chỉ là vùng sản xuất nông nghiệp mà là vùng kinh tế tổng hợp, động lực phát triển xanh của đất nước.

Để liên kết vùng trở thành thực chất, cần có những cơ chế mạnh mẽ hơn về tài chính, đầu tư và chia sẻ lợi ích. Bên cạnh đó, việc điều chỉnh, triển khai quy hoạch tích hợp vùng, quy hoạch lại các địa phương sau sáp nhập cần được coi là kim chỉ nam cho mọi kế hoạch phát triển ngành hàng, đặc biệt là lúa gạo, lĩnh vực vừa mang tính kinh tế vừa mang ý nghĩa chiến lược về an ninh lương thực.

Kinh tế lúa gạo xanh

Nhìn lại hành trình phát triển nông nghiệp Việt Nam, hạt gạo đã tạo ra nhiều kỳ tích kép. Lúa gạo vừa giúp bảo đảm an ninh lương thực, vừa đưa Việt Nam trở thành cường quốc xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Nhưng thực tế là Đồng bằng sông Cửu Long vẫn chưa thoát khỏi tình trạng trúng mùa, mất giá nên nông dân vẫn chưa thể làm giàu từ cây lúa. Bài toán đặt ra là phải chuyển từ sản xuất lúa gạo sang kinh tế lúa gạo, từ tăng sản lượng sang tăng giá trị, từ bán gạo thô sang bán sản phẩm có thương hiệu và truy xuất nguồn gốc.

Đề án 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chính là “đột phá chiến lược” cho mục tiêu này. Qua thời gian triển khai đã chứng minh hiệu quả thực tế. Đề án không chỉ nâng cao giá trị hàng hóa, mà còn hướng tới phát triển nông nghiệp hiện đại, có trách nhiệm, phù hợp xu thế phát triển bền vững toàn cầu.

Kinh tế lúa gạo xanh còn đòi hỏi sự thay đổi đồng bộ về khoa học – công nghệ, tổ chức sản xuất. Số hóa đồng ruộng, áp dụng công nghệ viễn thám, cảm biến môi trường, quản lý mã số vùng trồng, truy xuất nguồn gốc. Tất cả đều phải thật sự trở thành “chuẩn mực mới” trong sản xuất. Đồng thời, cần phát triển công nghiệp sau gạo, chế biến sâu, thương hiệu hóa sản phẩm, kết nối nông nghiệp với du lịch và kinh tế sáng tạo. Khi hạt gạo không chỉ là lương thực, mà còn là nguyên liệu cho ẩm thực, mỹ phẩm, dược phẩm, thời trang, du lịch trải nghiệm, lúc đó “giá trị vô hình” của nông nghiệp sẽ lớn hơn rất nhiều so giá trị hữu hình của lúa gạo.

Nông dân – trung tâm chuỗi giá trị mới

Nông dân là ai? Về lý thuyết, nông dân là những người lao động cư trú ở nông thôn, tham gia sản xuất nông nghiệp với tư liệu sản xuất chính gắn với đất đai. Nhưng nông dân mới ngày nay không thể chỉ là những người chỉ biết trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản. Tùy từng quốc gia, mỗi giai đoạn phát triển, nội hàm “nông dân” được hiểu và đặt ra trước yêu cầu và không gian phát triển chung.

Ở các nước phát triển, tầng lớp tiểu nông ngày càng ít, thay thế bằng chủ trang trại được tổ chức theo mô hình doanh nghiệp nông nghiệp. Họ không phải là nông dân theo cách hiểu thông thường mà là những công nhân nông nghiệp. Chúng ta cần xây dựng nông dân mới là những doanh nhân nông nghiệp gắn chặt với công nghiệp, thương mại – dịch vụ.

Đó là những nông dân với tư duy kinh tế, kiến thức quản trị, đưa cách nghĩ, cách làm, cách thức kinh doanh của một doanh nhân vào nông nghiệp. Yêu cầu khắc nghiệt của thương trường vượt khỏi không gian ruộng đồng, đòi hỏi người nông dân Việt Nam, người làm nông nghiệp phải chuyển đổi tư duy “làm ra nhiều nông sản” sang tư duy “làm ra nhiều giá trị từ nông sản”, chuyển từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp. Cư dân nông thôn cùng với nông dân mới, phải thật sự là chủ thể, trung tâm và được hưởng lợi chính từ thành quả của các hoạt động phát triển nông thôn.

Phát triển bền vững vựa lúa gạo không thể chỉ bắt đầu từ chính sách hay doanh nghiệp, mà phải bắt đầu từ người nông dân – chủ thể trung tâm của quá trình chuyển đổi. Họ không thể mãi đi một mình với ruộng nhỏ, chi phí cao, đầu ra bấp bênh. Cần có cơ chế để người nông dân trở thành đối tác trong chuỗi giá trị, được chia sẻ lợi ích, được tham gia vào các hợp tác xã kiểu mới, doanh nghiệp liên kết, được hỗ trợ tín dụng xanh và bảo hiểm nông nghiệp.

Một nền kinh tế lúa gạo xanh chỉ có thể bền vững khi người trồng lúa sống được bằng nghề, có tích lũy và có động lực đổi mới. Việc đào tạo nguồn nhân lực nông nghiệp công nghệ cao, hỗ trợ thanh niên nông thôn khởi nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp thông minh, là nhiệm vụ cấp thiết. Các trường đại học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp cần hình thành mạng lưới đổi mới sáng tạo nông nghiệp vùng Đồng bằng sông Cửu Long, nơi cung cấp tri thức, công nghệ, dữ liệu và thị trường cho nông dân.

Ngoài ra, cần có chính sách để người nông dân có thể tích tụ, góp đất, góp vốn, tham gia hợp tác xã với tư cách cổ đông, thay vì chỉ là người thuê đất hoặc làm thuê. Mô hình này vừa giúp tổ chức lại sản xuất quy mô lớn, vừa bảo đảm lợi ích của người dân – đúng tinh thần “không ai bị bỏ lại phía sau” trong phát triển nông nghiệp.

Phát triển bền vững vựa lúa gạo Đồng bằng sông Cửu Long không chỉ là câu chuyện kinh tế, mà là chiến lược quốc gia về an ninh lương thực, sinh kế và môi trường. Các định hướng trong Dự thảo văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng đã mở ra khung chính sách đúng và kịp thời: liên kết vùng, kinh tế nông nghiệp xanh, chuyển đổi đất lúa linh hoạt, ứng phó biến đổi khí hậu, lấy nông dân làm trung tâm. Vấn đề còn lại là hành động đồng bộ và thể chế đủ mạnh để biến tầm nhìn thành thực tiễn.

Khi thể chế vùng được hoàn thiện, khi kinh tế lúa gạo chuyển sang giá trị xanh, khi người nông dân thật sự trở thành chủ thể, vựa lúa Đồng bằng sông Cửu Long sẽ không chỉ giữ vai trò “trụ đỡ” mà trở thành động lực phát triển mới, góp phần hiện thực hóa khát vọng xây dựng Việt Nam “phồn vinh, hạnh phúc” trong kỷ nguyên chuyển đổi xanh.

Nguồn: Nhân Dân

Tin tức khác

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *